Truy cập nội dung luôn

Sở công thương Bình dương

Binh duong department of Industry and trade

Xuất nhập khẩu 8 tháng: Hành tiến cùng “vận tốc”

2013-09-06 22:43:00.0

Theo báo cáo của Bộ Công Thương, tháng 8/2013, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 11,5 tỷ USD, tăng 11,4% so với tháng 8 năm 2012, luỹ kế 8 tháng đạt 84,82 tỷ USD, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước.

Xuất khẩu tiếp tục tăng

Theo báo cáo của Bộ Công Thương, tháng 8/2013, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 11,5 tỷ USD, tăng 11,4% so với tháng 8 năm 2012, luỹ kế 8 tháng đạt 84,82 tỷ USD, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) đạt 51,25 tỷ USD, tăng 26,0% so với cùng kỳ. Điều này chứng tỏ Khu vực FDI tiếp tục đóng góp chủ yếu cho tăng trưởng xuất khẩu. Trong số 10,9 tỷ USD kim ngạch tăng thêm của cả nước trong 8 tháng, khu vực FDI (không kể dầu thô) đóng góp 10,6 tỷ USD (chiếm 97% kim ngạch tăng thêm). Đã có 17 mặt hàng chủ lực đạt từ 1 tỷ USD trở lên, trong đó 2 mặt hàng đạt trên 10 tỷ USD là điện thoại di động và linh kiện (13 tỷ USD - đứng đầu) và tiếp sau là dệt - may 11,5 tỷ USD)  .
 
Trong 4 nhóm hàng chủ lực, có hai nhóm tăng. Trước hết là nhóm hàng công nghiệp chế biến tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong tăng trưởng xuất khẩu, với kim ngạch xuất khẩu đạt 59 tỷ USD, tăng 25,6% và chiếm tỷ trọng 69,6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong đó hàng loạt mặt hàng tăng như hóa chất; sản phẩm chất dẻo; túi sách, vali, mũ, ô dù; gỗ và sản phẩm từ gỗ; xơ, sợi dệt các loại; hàng dệt và may mặc; giày dép các loại; nguyên phụ liệu, dệt may, da giày; đá quý và kim loại quý; sắt thép các loại; sản phẩm từ sắt thép; kim loại thường khác và sản phẩm; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; điện thoại các loại và linh kiện; phương tiện vận tải và phụ tùng.. Tuy nhiên, một số sản phẩm kim ngạch giảm như phân bón; máy ảnh, máy quay phim và linh kiện...
 
Nhóm hàng hóa khác ước đạt gần 6,2 tỷ USD, tăng 21,7%, chiếm tỷ trọng 7,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
 
Hai nhóm hàng còn lại đều giảm. Nhóm nông, lâm, thuỷ sản giảm do nhu cầu thị trường thế giới giảm, giá nhiều mặt hàng trên thị trường thế giới giảm và nguồn hàng cho xuất khẩu giảm do một số mặt hàng đã hết mùa vụ. Kim ngạch xuất khẩu nhóm nông, lâm, thuỷ sản đạt gần 13,2 tỷ USD, giảm 6,8% và chiếm tỷ trọng 15,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Một mặt hàng quan trọng giảm như cà phê; gạo; sắn và các sản phẩm từ sắn; cao su. Xuất khảu gạo năm nay gặp khó khăn. Trong 7 tháng nhiều hợp đồng xuất khảu gạo bị huỷ với tổng số lượng gần 1 triệu tấn. Việc huỷ hợp đồng xảy ra cả từ bên mua và bán nhưng bên các nhà nhập khẩu huỷ nhiều hơn, nhất là khách hàng Trung Quốc. Tình hình trở nên phức tạp hơn khi Thái Lan liên tục giảm giá. Trong khi đó, ta vẫn chưa ký hợp đồng cấp Chính phủ với Philippin và Indonexia. Dự báo tình hình do xuất khẩu khó khăn, sẽ ảnh hưởng đến giá gạo nội địa, Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) đã kiến nghị Chính phủ mua tạm trữ thêm 300 nghìn tấn (tương đương 600 nghìn tấn lúa). Tuy vậy, rau quả; nhân điều; hạt tiêu..., góp phần để cả nhóm không bị giảm sâu.
 
Cùng sụt giảm còn có nhóm nhiên liệu, khoáng sản đạt gần 6,43 tỷ USD, giảm 17,0% và chiếm tỷ trọng gần 7,6%, chủ yếu do sụt giảm của than đá; dầu thô; xăng dầu các loại. Riêng quặng và khoáng sản lại tăng.
 
Xuất khẩu sang thị trường Châu Á tăng 12,1% chiếm tỷ trọng trên 51,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; sang Châu Âu tăng 23,9%, chiếm tỷ trọng trên 20,6%, trong đó EU tăng 24,5% và chiếm tỷ trọng 18,6%; sang Châu Mỹ tăng 18,7%, chiếm tỷ trọng 21,1%; sang thị Châu Phi tăng 6,8%, chiếm tỷ trọng 1,5%; sang Châu Đại Dương tăng 6,7%, chiếm tỷ trọng 2,5%; thị trường chưa phân tổ chiếm tỷ trọng gần 2,8%
 
Nhập khẩu tăng với mức tương ứng

Tháng 8, nhập khẩu ước đạt 11,8 tỷ USD, tăng 5,2% so với tháng 7 và tăng 13,5 so với tháng 8 năm 2012. Tựu chung 8 tháng nhập khẩu đạt 85,4 tỷ USD, tăng 14,9% so với cùng kỳ.
 
Khối các doanh nghiệp 100% vốn trong nước nhập khẩu 37,1 tỷ USD, tăng 4,0%, chiếm tỷ trọng 43,4%; nhập khẩu của Khối FDI đạt 48,3 tỷ USD, tăng 25,1% so với cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 56,6% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước.
 
Nhóm hàng cần nhập khẩu ước đạt 75,24 tỷ USD, tăng 14,9%, chiếm tỷ trọng 88,1%; kim ngạch của nhóm hàng cần kiểm soát nhập khẩu ước đạt 2,95 tỷ USD, tăng 2,7% và chiếm tỷ trọng 3,5%; kim ngạch của nhóm hàng hạn chế nhập khẩu ước đạt 3,8 tỷ USD, tăng 13,2% và chiếm tỷ trọng 4,5%; nhóm hàng hóa khác ước đạt 3,4 tỷ USD, tăng 31,0%, chiếm tỷ trọng 4,0% trong tổng kim ngạch nhập khẩu.
 
Việc tăng cao mức nhập khẩu của Khối doanh nghiệp trong nước cũng như nhập khẩu của nhóm hàng cần nhập khập khẩu chứng minh rằng tình hình sản xuất trong nước tiếp tục được cải thiện.
 
Nếu như việc xuất khẩu sang thị trường Châu Á chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các thị trường xuất khẩu (51,4%) thì nhập khẩu cũng trong hình thái tương tự, nhưng với tỷ trọng lớn hơn. Nhập khẩu từ Châu Á tăng 17,5%, chiếm tỷ trọng 81% tổng kim ngạch nhập khẩu; Châu Âu tăng 6,4% và chiếm tỷ trọng 8,5%, trong đó EU tăng 8,1%, chiếm tỷ trọng 7,3%; Châu Mỹ tăng 9,8% và chiếm tỷ trọng 6,6%; Châu Phi chiếm tỷ trọng 0,4%; Châu Đại Dương chiếm tỷ trọng 1,5% và thị trường khác chiếm tỷ trọng 2,0%
 
Cán cân thương mại

Do xuất khẩu và nhập khẩu hành tiến cùng tốc độ (tăng 14,7% và 14,9%), nên cán cân thương mại gần như thắng bằng. Nhập siêu  8 tháng chỉ là 577 triệu USD, chỉ bằng 0.68% so với kim ngạch xuất khẩu. Tuy vậy tiếp tục có diễn biến trái chiều. Khu vực FDI (không kể dầu thô) xuất siêu gần 3,0 tỷ USD; nếu kể cả dầu thô, khu vực FDI xuất siêu khoảng 7,8 tỷ USD. Còn Khối doanh nghiệp trong nước nhập siêu gần 8,4 tỷ USD.
 
Giải pháp

Tập trung mọi nỗ lực hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là khối doanh nghiệp trong nước tranh thủ thuận lợi, vượt qua khó khăn, xuất khẩu nhiều mặt hàng hiện đang gặp khó khăn để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ (nhất là xuất khẩu dịch vụ và xuất khẩu tại chỗ).
 
Giữ vững thị trường xuất khẩu trọng điểm, truyền thống và đẩy mạnh tìm kiếm, phát triển thị trường xuất khẩu mới.
 
Triển khai Chương trình Xúc tiến thương mại quốc gia với các đề án đã phê duyệt 2 đợt trước và đợt 3 mới đây.
 
Rà soát, điều chỉnh các chính sách quản lý các mặt hàng nhập khẩu phù hợp với tình hình thực tế tạo thuận lợi cho thu hút đầu tư; kiểm soát, giám sát chặt chẽ hàng hóa nhập khẩu đảm bảo đúng quy định, tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường; phối hợp rà soát bổ sung, sửa đổi tăng thuế nhập khẩu phù hợp với cam kết hội nhập quốc tế đối với các mặt hàng trong Danh mục máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu trong nước đã sản xuất được./.


Lượt xem: 123

Thống kê truy cập

Đang truy cập:531

Tổng truy cập: 18379176