Một là, về đối tượng áp dụng, so với quy định cũ, văn bản mới bổ sung quy
định không áp dụng Nghị định này đối với tổ chức của người lao động tại doanh
nghiệp theo quy định của Bộ luật Lao động.
Hai là, về điều kiện thành lập hội: Về số lượng tổ chức, công dân Việt Nam
đăng ký tham gia thành lập hội, tại Nghị định số 45/2010/NĐ-CP quy định số
lượng công dân, tổ chức đăng ký tham gia thành lập hội: ít nhất 100 tổ chức,
công dân ở nhiều tỉnh cho hội toàn quốc; 50 tổ chức, công dân trong tỉnh cho
hội tỉnh; 20 tổ chức, công dân trong huyện cho hội huyện và 10 tổ chức, công
dân trong xã cho hội xã. Tại Nghị định số 126/2024/NĐ-CP đã quy định cụ thể hơn
số lượng tổ chức, công dân Việt Nam đăng ký tham gia thành lập hội, như: ít
nhất 100 tổ chức, công dân tại hai đơn vị hành chính cấp tỉnh trở lên cho hội
toàn quốc; 50 tổ chức, công dân tại hai đơn vị hành chính cấp huyện trở lên cho
hội tỉnh; 20 tổ chức, công dân tại hai đơn vị hành chính cấp xã trở lên cho hội
huyện, và 10 tổ chức, công dân tại đơn vị hành chính cấp xã cho hội xã. Điểm
mới hoàn toàn, được quy định tại Nghị định số 126/2024/NĐ-CP đó là: hội phải có
đủ tài sản để duy trì hoạt động. Tuy nhiên, tại Nghị định này, chưa quy định
chi tiết giá trị tài sản tối thiểu là bao nhiêu để duy trì hoạt động hội.
Ba là, quy định về cơ sở dữ liệu về Hội: Nghị định mới có riêng một điều
quy định về cơ sở dữ liệu về Hội phục vụ cho công tác quản lý nhà nước mà Nghị
định 45/2010/NĐ-CP chưa quy định.
Bốn là, về thời gian đại hội thành lập: Quy định mới rút ngắn thời gian
phải tổ chức đại hội thành lập hội từ 90 ngày xuống còn 60 ngày kể từ ngày có
quyết định cho phép thành lập hội.
Năm là, quy định về các hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ: quy định trước
đây có 01 chương quy định về hội có tính chất đặc thù, tuy nhiên để thể chế hóa
Quy định số 118-QĐ/TW, ngày 22/8/2023 của Ban Bí thư ban hành Quy chế tổ chức
và hoạt động của Hội quần chúng do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ ở Trung ương;
Nghị định mới đã dành một chương để quy định về các hội do Đảng, Nhà nước giao
nhiệm vụ. Tại Nghị định này đã bỏ tên gọi hội có tính chất đặc thù và thay vào
đó là hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ. Một trong những điểm nổi bật của
chương này là đã có quy định về chính sách, chế độ đối với người làm việc tại
hội do Đảng, Nhà nước giao nhiệm vụ.
Sáu là, về thẩm quyền giải quyết các thủ tục về hội: Tại Nghị định số
45/2010/NĐ-CP quy định về thẩm quyền thành lập và quản lý hội: Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh cho phép thành lập; chia, tách; sáp nhập; hợp nhất; giải thể;
đổi tên và phê duyệt điều lệ đối với hội có phạm vi hoạt động trong tỉnh. Căn
cứ tình hình thực tế ở địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ủy quyền
để Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện cho phép thành lập; chia, tách; sáp nhập;
hợp nhất; giải thể; đổi tên và phê duyệt điều lệ đối với hội có phạm vi hoạt
động trong xã. Trong khi đó, Nghị định số 126/2024/NĐ-CP đã quy định mới về
điều khoản phân cấp thành lập và quản lý hội cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã, cụ
thể như sau: (1) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền công nhận ban
vận động thành lập hội; cho phép thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất,
giải thể, đổi tên, phê duyệt điều lệ; đình chỉ hoạt động có thời hạn, cho phép
hoạt động trở lại đối với hội hoạt động trong phạm vi tỉnh. (2) Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp huyện có thẩm quyền công nhận ban vận động thành lập hội; cho phép
thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, đổi tên, phê duyệt điều
lệ; đình chỉ hoạt động có thời hạn, cho phép hoạt động trở lại đối với hội hoạt
động trong phạm vi huyện, xã.
Bảy là, quy định về trách nhiệm của các cơ quan, liên quan: Nghị định mới
quy định một cách cụ thể trách nhiệm của từng Bộ, ngành có liên quan, không còn
quy định trách nhiệm chung như Nghị định 45/2010/NĐ-CP.
Việc Chính phủ ban hành quy định mới về tổ chức, hoạt động và quản lý hội
thay thế cho Nghị định được ban hành từ năm 2010 đã kịp thời thể chế các quy
định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về hội, cũng như giải quyết được những vấn đề
không thống nhất giữa quy định của Đảng và quy định của pháp luật về quản lý
hội. Đặc biệt quy định mới đã giải quyết được những vấn đề bất cập phát sinh
trong thực tiễn khi thực hiện công tác quản lý nhà nước về hội, giúp công tác
quản lý nhà nước về hội ngày càng hiệu quả hơn./.